Cập nhập: 25.09.2025

Kính Chào Quý Khách Hàng và Đối Tác,

ADK Vietnam Lawyers xin trân trọng giới thiệu đến quý vị Bản Tin Pháp Luật Số 63 của Tháng 9 năm 2025 với các quy định pháp luật mới có nội dung đáng chú ý sau:

1. Những điểm mới của Luật sửa đổi Luật Doanh Nghiệp

Vào ngày 17/06/2025, Quốc Hội đã thông qua Luật số 76/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh Nghiệp (sau đây gọi tắt là “Luật số 76/2025/QH15”) nhằm tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch cũng như đáp ứng chuẩn mực quốc tế tại Việt Nam. Các điểm chỉnh sửa được liệt kê như dưới đây.

1.1. Khái niệm về chủ sở hữu hưởng lợi

Lần đầu tiên, Việt Nam đã chính thức ghi nhận khái niệm về “chủ sở hữu hưởng lợi” trong văn bản pháp luật, với mục đích nhằm nâng cao tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Luật số 76/2025/QH15, chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp sẽ được hiểu là cá nhân có quyền sở hữu thực tế đối với vốn điều lệ hoặc có quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp.

Đồng thời, Luật số 76/2025/QH15 cũng đặt ra nghĩa vụ cho doanh nghiệp trong việc thu thập, cập nhật, lưu giữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi; cung cấp thông tin này cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu cầu; và đảm bảo việc kê khai, cung cấp thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi khi nộp hồ sơ trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.

1.2. Điều chỉnh định nghĩa cổ tức, giá thị trường

Luật số 76/2025/QH15 đã sửa đổi, bổ sung một số định nghĩa cơ bản, nhằm bảo đảm tính rõ ràng và chính xác hơn trong hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ nhất, định nghĩa về “cổ tức” đã được làm rõ, theo đó, cổ tức là khoản lợi nhuận sau thuế được chi trả cho mỗi cổ phần bằng tiền hoặc bằng tài sản khác, thay vì chỉ giới hạn ở khái niệm lợi nhuận ròng như trước đây. Sự thay đổi này góp phần nâng cao tính minh bạch trong báo cáo tài chính và hạn chế nguy cơ phát sinh tranh chấp giữa các cổ đông.

Thứ hai, định nghĩa về “giá thị trường” của phần vốn góp hoặc cổ phần cũng được quy định cụ thể hơn. Theo đó, Luật số 76/2025/QH15 xác định hai trường hợp:

(i) Đối với cổ phiếu niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch chứng khoán, giá thị trường được xác định dựa trên giá giao dịch bình quân trong vòng 30 ngày liền kề trước ngày xác định giá, hoặc theo giá thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, hoặc theo giá do một tổ chức thẩm định giá xác định;

(ii) Đối với phần vốn góp hoặc cổ phần không thuộc trường hợp trên, giá thị trường là giá giao dịch trên thị trường tại thời điểm liền kề trước đó, hoặc giá thỏa thuận giữa người bán và người mua, hoặc giá do một tổ chức thẩm định giá xác định.

1.3. Điều chỉnh, bổ sung quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ

Theo quy định mới, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp khi tham gia mua, giao dịch hoặc chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về chứng khoán.

Đối với công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng, khi thực hiện chào bán trái phiếu riêng lẻ, pháp luật bổ sung thêm điều kiện ràng buộc là tổng nợ phải trả (bao gồm cả giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) không được vượt quá 05 lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm liền kề trước năm phát hành.

Tuy nhiên, điều kiện này không áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp phát hành trái phiếu cho dự án bất động sản, tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm, công ty môi giới bảo hiểm, công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, do các chủ thể này đã chịu sự điều chỉnh bởi những quy định pháp luật chuyên ngành chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn.

Luật số 76/2025/QH15 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2025.

2. Triển khai thị trường các-bon trong nước

Vào ngày 09/06/2025, Chính Phủ đã thông qua Nghị Định số 119/2025/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 của chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (sau đây gọi tắt là “Nghị Định số 119/2025/NĐ-CP”).

Theo quy định tại Nghị Định số 119/2025/NĐ-CP, từ nay đến hết năm 2028, Việt Nam sẽ tập trung thiết lập Hệ thống đăng ký quốc gia, tổ chức vận hành thí điểm Sàn giao dịch các-bon trong nước, đồng thời triển khai cơ chế trao đổi và bù trừ tín chỉ các-bon. Song song với đó, các hoạt động nâng cao năng lực và nhận thức về thị trường các-bon cũng sẽ được đẩy mạnh.

Từ năm 2029 trở đi, Nhà nước sẽ triển khai cơ chế đấu giá hạn ngạch phát thải khí nhà kính, đồng thời hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý tín chỉ các-bon, tổ chức và vận hành thị trường trong nước, tiến tới tham gia thị trường các-bon toàn cầu.

Nghị Định số 119/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/08/2025.

3. Một số quy định mới về hướng dẫn Luật Đầu Tư

Vào ngày 03/09/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 239/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư (sau đây gọi tắt là “Nghị Định số 239/2025/NĐ-CP”). Theo đó, đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung chính bao gồm:

3.1. Rút ngắn thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

Cụ thể, điểm b khoản 12 Điều 1 Nghị Định số 239/2025/NĐ-CP quy định cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ khi dự án đáp ứng các điều kiện. So với quy định trước đây là 15 ngày, thời hạn này đã được rút ngắn xuống còn 10 ngày, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính.

3.2. Bổ sung Danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư

Nghị Định số 239/2025/NĐ-CP đã bổ sung nhiều ngành nghề mới vào Phụ lục II – Danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Cụ thể, sửa đổi, bổ sung số thứ tự 3 Mục A.III của Phụ lục II, Danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư:

– Đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ;

– Đầu tư phát triển và vận hành, quản lý công trình kết cấu hạ tầng đường sắt, kinh doanh vận tải đường sắt, công nghiệp đường sắt và đào tạo nguồn nhân lực đường sắt;

– Cảng hàng không, cảng biển, cảng thủy nội địa;

– Sân bay, nhà ga và công trình cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Nghị Định số 239/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành.

4. Thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân

Vào ngày 26/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật số 91/2025/QH15 về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (sau đây gọi tắt là “Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân”). Việc ban hành Luật này nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền dữ liệu cá nhân, ngăn chặn các hành vi xâm phạm dữ liệu gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân có một số điểm đáng chú ý như sau:

4.1. Liên quan đến xử lý dữ liệu lớn, AI, Blockchain

Theo khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu cá nhân trong môi trường dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, vũ trụ ảo và điện toán đám mây phải được xử lý đúng mục đích, giới hạn trong phạm vi cần thiết và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu. Doanh nghiệp không được thu thập hoặc xử lý vượt quá mục đích đã công bố hoặc đã được thỏa thuận với người dung.

Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 30, các hệ thống công nghệ xử lý dữ liệu cá nhân phải tích hợp biện pháp bảo mật phù hợp, áp dụng phương thức xác thực và định danh thích hợp, cũng như thiết lập cơ chế phân quyền truy cập khi xử lý dữ liệu. Đặc biệt, khoản 4 Điều 30 còn yêu cầu doanh nghiệp khi xử lý dữ liệu bằng trí tuệ nhân tạo phải phân loại theo mức độ rủi ro để áp dụng biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân tương ứng.

4.2. Cấm tuyệt đối hành vi mua bán dữ liệu cá nhân

Theo Điều 7 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, có 07 hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến dữ liệu cá nhân, bao gồm:

(1) Xử lý dữ liệu cá nhân nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

(2) Cản trở hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân.

(3) Lợi dụng hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

(4) Xử lý dữ liệu cá nhân trái quy định của pháp luật.

(5) Sử dụng dữ liệu cá nhân của người khác, cho người khác sử dụng dữ liệu cá nhân của mình để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật.

(6) Mua, bán dữ liệu cá nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.

(7) Chiếm đoạt, cố ý làm lộ, làm mất dữ liệu cá nhân.

Trong đó, hành vi mua bán dữ liệu cá nhân được xác định là một trong những hành vi bị nghiêm cấm tuyệt đối, nhằm ngăn chặn nguy cơ rò rỉ dữ liệu cũng như bảo đảm trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an toàn và minh bạch.

4.3. Phải xóa dữ liệu cá nhân người lao động sau khi chấm dứt hợp đồng

Căn cứ khoản 2 Điều 25 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân của người lao động trong quá trình quản lý và sử dụng. Theo đó, sau khi chấm dứt hợp đồng, doanh nghiệp phải:

– Tuân thủ quy định của Luật này, pháp luật về lao động, việc làm, pháp luật về dữ liệu và quy định khác của pháp luật có liên quan;

– Dữ liệu cá nhân của người lao động phải lưu trữ trong thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận;

– Phải xóa, hủy dữ liệu cá nhân của người lao động khi chấm dứt hợp đồng, trừ trường hợp theo thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.

Những quy định này nhằm bảo đảm quyền riêng tư và lợi ích hợp pháp của người lao động trong quá trình quản lý, lưu trữ và xử lý dữ liệu cá nhân đối với doanh nghiệp.

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026.

Chúng tôi hy vọng rằng Bản tin Pháp Luật này có nhiều thông tin hữu ích.

Trân trọng./.

ADK VIETNAM LAWYERS