Cập nhập: 22.12.2025

CÁC “MẠNG XÃ HỘI” HIỆN NAY LIỆU CÓ ĐÁP ỨNG CÁC QUY ĐỊNH VÀ PHẢI ĐĂNG KÝ/ĐĂNG KÝ LẠI THEO NGHỊ ĐỊNH MỚI?

Vào ngày 09 tháng 11 năm 2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 147/2024/NĐ-CP (“Nghị định 147“) thay thế Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng (“Nghị định 72“). Nghị định 147 có hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2024 và đưa ra hướng dẫn toàn diện về các luật khác nhau bao gồm nhưng không giới hạn Luật An ninh quốc gia, Luật Báo chí, Luật Công nghệ thông tin, Luật An ninh mạng, và Luật An toàn thông tin mạng.

I. Cải tiến về định nghĩa:

    Tại Nghị định 72, mạng xã hội (social network) được định nghĩa là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.

    Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, việc định nghĩa thông qua hình thức liệt kê ra các công cụ, chức năng mà người dùng có thể được tiếp cận khiến định nghĩa trên trở nên lỗi thời, không bao trùm được hết các “mạng xã hội” đang được phát triển, dẫn dến việc khó kiểm soát và quản lý. 

    Trước tình hình trên, Nghị định 147 đưa ra một cách định nghĩa mới. Theo đó, mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin được thiết lập trên nền tảng trang thông tin điện tử hoặc ứng dụng trên mạng, cung cấp các dịch vụ, công cụ cho phép người sử dụng dịch vụ cung cấp, trao đổi, tương tác, chia sẻ thông tin với nhau.

    Như vậy, Nghị định 147 đã cập nhật và không đề cập đến công nghệ của “mạng xã hội” mà hướng về những giá trị mà “mạng xã hội” mang lại đến cho người dùng. Với sự thay đổi này, cách tiếp cận mạng xã hội cũng mang tính linh hoạt hơn, phù hợp với sự phát triển của công nghệ, khi không còn bị giới hạn bởi các chức năng cụ thể, mà tập trung vào bản chất của dịch vụ mạng xã hội. Do đó, quy định này có thể dẫn đến việc một số ứng dụng/website trước đó không phải xin Giấy phép hiện tại có thể sẽ nằm trong phạm vi của định nghĩa “mạng xã hội” theo Nghị định 147 này và phải thực hiện thủ tục xin cấp phép theo quy định.

    II. Phạm vi áp dụng và yêu cầu đăng ký

      Dựa trên sự thay đổi này, phạm vi điều chỉnh của Nghị định 147 được mở rộng đáng kể. Các nền tảng cho phép tương tác và chia sẻ thông tin giữa người dùng đều được xem xét là mạng xã hội và phải tuân thủ các quy định tương ứng. Ngoài ra, Nghị định 147 còn rạch ròi hơn trong việc chia ra hai trường hợp riêng biệt là mạng xã hội nước ngoài do tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam và mạng xã hội trong nước do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tại Việt Nam cung cấp. 

      Trong trường hợp đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài, chỉ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài có sử dụng dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam hoặc có tổng số lượt truy cập từ Việt Nam (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) từ 100.000 lượt trở lên đã thông báo thông tin liên hệ cho Bộ Thông tin và Truyền thông mới được cung cấp tính năng livestream hoặc cung cấp các hoạt động có phát sinh doanh thu dưới mọi hình thức. Từ đó, có thể nhận thấy quy định đang thắt chặt hơn đối với các hoạt động livestream hoặc các hoạt động có phát sinh doanh thu dưới mọi hình thức. Ngoài ra, chỉ những tài khoản đã xác thực mới được đăng tải thông tin (viết bài, bình luận, livestream) và chia sẻ thông tin trên mạng xã hội và bắt buộc phải xác thực tài khoản bằng số định danh cá nhân khi có mong muốn thực hiện các hoạt động livestream thương mại.

      Đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tại Việt Nam, ăn cứ Điều 24 Nghị định 147, các cơ quan, tổ chức này chỉ được thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp, cung cấp dịch vụ mạng xã hội khi có một trong các giấy phép như Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp; Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội; hoặc Giấy xác nhận thông báo cung cấp dịch vụ mạng xã hội.

      Việc xác định cụ thể giấy phép mà nhà cung cấp “mạng xã hội” phải được cấp khi kinh doanh dịch vụ phụ thuộc vào phân loại của “mạng xã hội” theo tổng số lượng truy cập, cụ thể như sau:

      a. Mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên lớn được hiểu là mạng xã hội có tổng số lượt truy cập (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) từ 10.000 lượt trở lên hoặc có trên 1.000 người sử dụng thường xuyên trong tháng, phải được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội;

        b. Mạng xã hội có số lượng người truy cập thường xuyên thấp được hiểu là các mạng xã hội có tổng số lượt truy cập (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trung bình trong thời gian 06 tháng liên tục) dưới 10.000 lượt hoặc có dưới 1.000 người sử dụng thường xuyên trong tháng, cần phải đạt được Giấy xác nhận thông báo cung cấp dịch vụ mạng xã hội.

          Việc phân loại này nhằm tạo ra khung pháp lý phù hợp với quy mô hoạt động, đảm bảo tính khả thi trong thực thi. Theo đó, chỉ các mạng xã hội đã được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ mạng xã hội mới được cung cấp tính năng livestream hoặc cung cấp các hoạt động có phát sinh doanh thu dưới mọi hình thức.

          III. Việc quản lý các mạng xã hội đã được cấp phép theo Nghị định cũ

            Căn cứ Điều 82 của Nghị định 147, “Giấy phép thiết lập mạng xã hội” đã được cấp theo các Nghị định cũ sẽ có hiệu lực theo thời gian được cấp. Và trong vòng 90 ngày kể từ ngày Nghị định 147 có hiệu lực, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp phải tiến hành rà soát và báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông (Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử) về tổng số lượt truy cập từ Việt Nam (total visits) thường xuyên trong 01 tháng (số liệu thống kê trong thời gian 06 tháng liên tục) và số lượng người sử dụng thường xuyên trong tháng trên mạng xã hội do mình quản lý.

            Ngoài ra, cũng trong vòng 90 ngày kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài và tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trong nước đều phải thực hiện xác thực những tài khoản đang hoạt động của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội theo quy định. Sau 90 ngày kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, nếu các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không thực hiện theo quy định trên thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

            Mặt khác, nhằm đảm bảo “mạng xã hội” được cung cấp đáp ứng các yêu cầu của quy định pháp luật hiện hành về an toàn thông tin mạng và bảo mật thông tin, “mạng xã hội” cũng phải đáp ứng các điều kiện luật định về nhân sự, kỹ thuật khác quy định tại Nghị định 147. Với các thay đổi hoàn toàn mới và điều kiện khắt khe ở trên, Nghị định 147 đang đặt ra khuôn khổ pháp lý toàn diện nhằm tạo môi trường mạng xã hội an toàn và lành mạnh hơn tại Việt Nam và tạo ra cơ chế quản lý, các nền tảng mạng xã hội cũng như điều chỉnh hoạt động của “mạng xã hội” để đáp ứng các yêu cầu mới này và xây dựng môi trường mạnh tích cực và an toàn hơn.

            ADK Vietnam Lawyers