Cập nhập: 13.08.2025

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Việc công nhận và thi hành các bản án, quyết định này không chỉ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự, mà còn góp phần tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Đặc biệt, nguyên tắc “có đi có lại” trong quan hệ quốc tế đã trở thành một chuẩn mực quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác pháp lý giữa các quốc gia, đặc biệt là trong việc công nhận và thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam.
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam được quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế. Nguyên tắc “có đi có lại” là một cơ sở quan trọng để các Tòa án trong nước có thể công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài khi không có điều ước quốc tế quy định cụ thể. Chính vì vậy, việc áp dụng nguyên tắc này không chỉ là một yêu cầu pháp lý mà còn là một bước đi quan trọng để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống pháp lý quốc tế.
1. Quy định pháp luật về nguyên tắc “có đi có lại” trong công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam
1.1 Khái niệm và bản chất nguyên tắc “có đi có lại” theo pháp luật quốc tế, và theo pháp luật Việt Nam
Trong quan hệ quốc tế và tư pháp quốc tế, nguyên tắc “có đi có lại” là một trong những nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm sự đối xử công bằng, bình đẳng và tương hỗ giữa các quốc gia. Theo nguyên tắc này, các quyền lợi, ưu đãi hoặc biện pháp pháp lý mà một quốc gia dành cho công dân hoặc pháp nhân của quốc gia khác phải được đáp lại một cách tương xứng (Ví dụ: Nếu nước A miễn thị thực cho công dân nước B trong 30 ngày, nước B cũng sẽ áp dụng chính sách tương tự đối với công dân nước A). Sự đáp lại này có thể được thể hiện qua nhiều hình thức, tiêu biểu là việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài.
Tại Việt Nam, nguyên tắc này đã được ghi nhận chính thức trong pháp luật tố tụng dân sự như là một trong những cơ sở để Tòa án có thẩm quyền xem xét việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài. Cụ thể, theo điểm b khoản 1 Điều 423 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án Việt Nam có thể công nhận và cho thi hành: “Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại”. Quy định này cho thấy phần nào sự chủ động, linh hoạt của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi cho phép Tòa án áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” như một cơ chế bổ sung trong trường hợp không tồn tại điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương với quốc gia ban hành bản án.
1.2 Điều kiện áp dụng nguyên tắc “Có đi có lại” trong công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài tại Việt Nam
Ngoài quy định tại điểm b khoản 1 Điều 423 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 như nêu trên, hiện nay pháp luật Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể hướng dẫn về điều kiện áp dụng cũng như trình tự, thủ tục thực hiện nguyên tắc này. Trên thực tế, trong quá trình xem xét hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, Tòa án Việt Nam có thể tham khảo tinh thần của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến nguyên tắc “có đi có lại”, dù các quy định này không trực tiếp điều chỉnh vấn đề nêu trên. Việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” khi không có điều ước quốc tế điều chỉnh do đó đòi hỏi Tòa án phải đánh giá thận trọng và cân nhắc dựa trên cả thông lệ quốc tế lẫn lập luận pháp lý cụ thể của từng vụ việc.
Theo đó, một số điều kiện có thể được Tòa án cân nhắc khi áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” như sau:
- Bản án, quyết định được yêu cầu công nhận và thi hành phải có hiệu lực pháp luật tại quốc gia nơi ban hành, được tuyên bởi một cơ quan có thẩm quyền và đáp ứng các yêu cầu về mặt hình thức tố tụng.
- Việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, đồng thời phải phù hợp với thông lệ quốc tế và không xâm phạm đến chủ quyền, an ninh, lợi ích quốc gia hoặc trật tự công cộng.
- Việc áp dụng nguyên tắc này phải bảo đảm tính công bằng và tương hỗ về mặt pháp lý, thể hiện ở việc quốc gia nơi ban hành bản án cũng có cơ chế tương tự để công nhận và thi hành bản án của Tòa án Việt Nam, hoặc thể hiện thiện chí tương trợ tư pháp thực tế trong các vụ việc trước đó.
- Không vi phạm các quyền cơ bản của công dân và tổ chức theo Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt là các quyền liên quan đến xét xử công bằng, quyền được bảo vệ tài sản hợp pháp, quyền được tiếp cận công lý và các quyền dân sự khác.
1.3 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành
Nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam, Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao đã ban hành Dự thảo Nghị quyết kể từ năm 2019, gần đây nhất là bản Dự thảo năm 2020 (“Dự thảo”). Dự thảo này nhằm hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành, đồng thời đề cập cụ thể đến việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” tại Điều 7.
Điểm nổi bật của Dự thảo là việc quy định cụ thể các trường hợp Tòa án Việt Nam có thể từ chối công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc “có đi có lại”, bao gồm:
(i) Không tồn tại quan hệ có đi có lại giữa hai quốc gia;
(ii)Tòa án của quốc gia liên quan đã từ chối công nhận dựa trên chính nguyên tắc “có đi có lại”.
Đáng chú ý, Dự thảo thể hiện quan điểm tiến bộ khi quy định rằng người yêu cầu không phải chứng minh việc Tòa án nước ngoài đã từng hoặc sẽ công nhận bản án, quyết định của Tòa án Việt Nam. Điều này giúp giảm gánh nặng chứng minh và phản ánh sự linh hoạt trong cách hiểu và áp dụng nguyên tắc “có đi có lại”.
Tuy nhiên, do Dự thảo cho đến nay vẫn chưa được ban hành chính thức, nên việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” hiện còn thiếu tính thống nhất và rõ ràng giữa các Tòa án địa phương.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” trong công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài tại Việt Nam
2.1 Khó khăn, vướng mắc
Từ các phân tích nêu trên, có thể thấy rằng mặc dù nguyên tắc có đi có lại trong thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài tại Việt Nam đã được chúng ta cam kết đơn phương từ năm 2005 thông qua Bộ luật Dân sự 2005 nhưng cho đến thời điểm hiện tại Việt Nam vẫn chưa chính thức có hướng dẫn chi tiết, cụ thể nào đối với vấn đề này. Điều này dẫn đến trên thực tiễn, người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cũng như có nhiều ý kiến, quan điểm và cách hiểu khác nhau khi thực hiện thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài tại Việt Nam dựa trên nguyên tắc “có đi có lại”. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, căn cứ khoản 1 Điều 434 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, trong trường hợp Việt Nam và nước có Tòa án đã ban hành bản án, quyết định chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế và cần phải xem xét việc công nhận, cho thi hành dựa trên nguyên tắc “có đi có lại” thì kèm theo theo đơn yêu cầu phải có các tài liệu, giấy tờ như sau:
- Bản chính hoặc bản sao có chứng thực bản án, quyết định do Tòa án nước ngoài cấp.
- Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật, chưa hết thời hiệu thi hành và cần được thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp trong bản án, quyết định đó đã thể hiện rõ những nội dung này.
- Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận kết quả tống đạt hợp lệ bản án, quyết định đó cho người phải thi hành.
- Văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã được triệu tập hợp lệ trong trường hợp Tòa án nước ngoài ra bản án vắng mặt họ.
So sánh nội dung nêu trên với các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu được quy định trong hầu hết các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (các Hiệp định tương trợ tư pháp) về việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài thì trường hợp chưa có điều ước quốc tế và cần xem xét áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” được quy định đặc biệt hơn ở một loại tài liệu đó là “văn bản của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác nhận kết quả tống đạt hợp lệ bản án, quyết định đó cho người phải thi hành”.
Tuy nhiên, khi xét đến xu hướng thế giới đang tiến lên kỷ nguyên số, thực hiện chuyển đổi số cũng như xuất phát từ chính nhu cầu cải tiến hệ thống tư pháp trong giai đoạn dịch bệnh, rất nhiều các quốc gia đã và đang triển khai mô hình Tòa án điện tử, từ đó, các bản án, quyết định của các Tòa án này cũng có thể được ban hành trên môi trường điện tử và ngay lập tức gửi trực tuyến đến cho các đương sự. Do đó, việc điểm c khoản 1 Điều 434 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định người yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài phải có được xác nhận của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đối với kết quả tống đạt hợp lệ là chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, việc yêu cầu loại tài liệu này có thể gây khó khăn cho người yêu cầu bởi vì việc xác nhận như trên phụ thuộc hoàn toàn vào pháp luật quốc gia của Tòa án đã ra bản án, quyết định có cho phép thực hiện thủ tục xác nhận hay không cũng như phụ thuộc vào chính ý chí của Tòa án đã ra bản án, quyết định có mong muốn xác nhận hay không.
Thứ hai, theo khoản 3 Điều 6 của Dự thảo, Tòa án Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” để không công nhận bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài trong trường hợp Tòa án của nước đó đã không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án Việt Nam với lý do giữa nước đó và Việt Nam không tồn tại mối quan hệ có đi có lại hoặc trong trường hợp Tòa án của nước đó đã không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án Việt Nam dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Tuy nhiên, cần phải cân nhắc và xem xét liệu rằng các trường hợp nêu trên có mâu thuẫn và trái với quy định tại Điều 439 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về những bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hay không.
Thứ ba, có quan điểm cho rằng việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” để giải quyết công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài cần phải thực hiện theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự. Trong khi đó, có quan điểm khác cho rằng nguyên tắc “có đi có lại” chỉ được áp dụng khi xem xét yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài với điều kiện Tòa án nước đó đã từng công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án Việt Nam.
2.2 Tình hình áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” trên thực tiễn
Căn cứ theo Cơ sở dữ liệu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài trích xuất tại Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp cho thấy rằng trong giai đoạn từ 01 tháng 01 năm 2012 đến ngày 30 tháng 9 năm 2019, Việt Nam đã vận dụng nguyên tắc “có đi có lại” để công nhận và không công nhận một số bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài. Một số ví dụ minh hoạ trên thực tiễn như sau:
(i) Tại Quyết định số: 25/2019/QĐPT-KDTM ngày 27 tháng 5 năm 2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định rằng: “Tòa án cấp sơ thẩm xác định Phán quyết cuối cùng trong vụ kiện số DC 1169/2011/F do Tòa án cấp dưới của nước Cộng Hòa Singapore ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2011 được xem là bản án kinh doanh thương mại của Tòa án nước ngoài; trong khi đó, giữa Việt Nam và Singapore chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp về công nhận và cho thi hành bản án quyết định của nhau, Việt Nam cũng chưa là thành viên công ước đa phương nào về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự, kinh doanh thương mại, mà Singapore là thành viên, nên việc xét đơn yêu cầu của UMW trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại giữa Việt nam và Singapore, là đúng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 423 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015”. Từ đó, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Thương mại Kỹ thuật CDK và giữ nguyên Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 1495/2018/QĐST-KDTM ngày 25 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
(ii) Tại Quyết định số: 02/2018/QĐKDTM-ST ngày 16 tháng 01 năm 2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định không công nhận đối với Phán quyết vụ việc số: 2017 Da213937 ngày 23 tháng 8 năm 2017 của Tòa án tối cao Hàn Quốc về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn giữa Công ty DK Ltd và ông Jang Jin H với lý do “Hàn Quốc và Việt Nam chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự trong đó có quy định về vấn đề công nhận bản án của nhau trên lãnh thổ nước kia nên việc công nhận và cho thi hành bản án của Hàn Quốc dựa trên nguyên tắc có đi có lại theo điểm b khoản 1 Điều 423 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Thực tiễn Hàn Quốc chưa áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam nên Tòa án Việt Nam chưa có cơ sở để áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong trường hợp này”.
3. Kết luận và kiến nghị
Nguyên tắc “có đi có lại” là một công cụ pháp lý quan trọng để Việt Nam thúc đẩy hội nhập quốc tế cũng như xúc tiến quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác. Hiện nay, việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” trong thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài được quy định khái quát tại Chương XXXVI của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng nguyên tắc nêu trên còn nhiều khó khăn và vướng mắc. Cụ thể, các khó khăn và vướng mắc bao gồm: (i) việc yêu cầu phải có được xác nhận của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đối với kết quả tống đạt hợp lệ là chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh quốc tế hiện nay, (ii) các lý do để không công nhận bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam có đang mâu thuẫn với Điều 439 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 hay không và (iii) công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài có phải thực hiện theo quy định của pháp luật tương trợ tư pháp về dân sự không hay chỉ được áp dụng khi xem xét yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài với điều kiện Tòa án nước đó đã từng công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án Việt Nam.
Thiết nghĩ, pháp luật Việt Nam cần phải có các quy định rõ ràng về điều kiện, căn cứ áp dụng, thủ tục công nhận và thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, phù hợp với nguyên tắc “có đi có lại” này. Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao cũng cần tập trung đẩy mạnh công tác bồi dưỡng kiến thức và năng lực cho các Thẩm phán, cán bộ của Tòa án khu vực về công tác công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam, qua đó giúp họ hiểu rõ hơn và vận dụng nhuần nhuyễn hơn trong quá trình xem xét yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả giải quyết loại yêu cầu này.
ADK Vietnam Lawyers