I. Cơ sở pháp lý
− Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (Base erosion and profit shifting – BEPS);
− Quyết định ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của tổ công tác đặc biệt của thủ tướng chính phủ về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu của OECD ngày 14 tháng 4 năm 2023;
− Nghị quyết số 115/NQ-CP Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 7 năm 2013 ban hành ngày 28 tháng 7 năm 2023
II. Lí do ra đời của Thuế tối thiểu toàn cầu
Thuế tối thiểu toàn cầu - Global Minimum Tax (“GMT”) hay còn gọi là Thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiếu toàn cầu, là một trong hai trụ cột quan trọng của “chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận” của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization for Economic Cooperation and Development (“OECD”). Theo đó, GMT sẽ thực hiện đánh thuế 15% đối với những doanh nghiệp đa quốc gia có doanh thu toàn cầu từ 750 triệu EUR (800 triệu USD) trong ít nhất hai năm của bốn năm liền kề gần nhất.
Theo thông tin từ tổng cục thuế, hiện nay, Việt Nam đang có hơn 36.500 dự án đầu tư với tổng số vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 435 tỷ USD, qua những đánh giá sơ bổ của Tổng cục Thuế, sẽ có khoảng 1.017 tổ chức sẽ phải chịu tác động của GMT trong mạng lưới của các tập đoàn đa quốc gia đầu tư tại Việt Nam.
Với số lượng lớn doanh nghiệp sẽ phải chịu tác động của GMT, nếu không có phương án xây dựng chính sách kịp thời, thì lượng thất thu ngân sách nhà nước có thể lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Trước những cơ hội và thách thức như vậy, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115/NQ-CP năm 2023 về phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật vào ngày 28/07/2023. Theo đó, Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khẩn trương nghiên cứu, có ý kiến góp ý trực tiếp vào Tờ trình và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và cơ chế, chính sách hỗ trợ khác cho nhà đầu tư ngoài ưu đãi về thuế thuế, gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong ngày 28 tháng 7 năm 2023.
Không chỉ ngăn cản khoản thất thu, GMT sẽ góp phần ngăn chặn các hành vi trốn thuế của các doanh nghiệp tại Việt Nam thông qua hoạt động chuyển giá. Theo đó, chuyển giá là hành vi của các chủ thể kinh tế có quan hệ liên kết hoặc lợi ích chung trong mối quan hệ nào đó, mà họ định giá hàng hóa, dịch vụ và tài sản mà họ trao đổi không dựa trên giá thị trường. Mục tiêu của việc này là để chuyển thu nhập từ nơi có thuế cao sang nơi có thuế thấp, từ đó giảm tổng thuế và tối ưu hóa lợi nhuận sau thuế. Ví dụ như CocaCola Việt Nam từng bị Cục Thuế TP.HCM xếp vào vị trí số 1 trong danh sách doanh nghiệp nghi vấn có dấu hiệu chuyển giá vì bị thua lỗ nhiều năm liên tục nhưng vẫn có thể hoạt động và mở rộng sản xuất tại Việt Nam,
Vì thế, áp dụng thuế tối thiếu toàn cầu có thể giúp được Việt Nam giảm các tình trạng chuyển giá không rõ ràng, qua đó tăng tính công bằng trong hoạt động thuế và tối ưu hóa thuế cho cả quốc gia và các doanh nghiệp. Đồng thời, còn thu lại nguồn thuế thất thoát.
III. Cơ hội cho Việt Nam
3.1. Cơ hội để cải thiện lại hệ thống pháp luật
Tham gia vào GMT mang đến cơ hội quan trọng cho Việt Nam trong việc cải cách hệ thống thuế. Việc này sẽ giúp nước ta tiếp cận và thích nghi với các tiêu chuẩn thuế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài ra, cơ hội này cũng đặt ra yêu cầu cho việc cập nhật và hoàn thiện các hệ thống thông tin thuế và quản lý thuế của Việt Nam. Việc này sẽ giúp cải thiện tính minh bạch của quá trình thu thuế, tăng cường sự tuân thủ của các doanh nghiệp, và giúp chính quyền thuế xác định và thu thuế một cách hiệu quả hơn. Từ đó, Việt Nam có cơ hội tăng cường quản lý thuế, giảm thiểu tiêu cực và tránh lạm dụng thuế.
3.2. Cơ hội cho môi trường đầu tư lành mạnh
Hơn nữa, việc tham gia vào GMT sẽ mở ra một cơ hội đáng quý cho Việt Nam trong việc điều chỉnh chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (“FDI”). Thay vì chỉ đơn giản sử dụng các ưu đãi thuế, Việt Nam sẽ có thể tập trung hơn vào việc thu hút các dự án FDI theo một cách hoàn toàn mới, khác biệt với trước kia. Điều này đồng nghĩa với việc cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi và minh bạch hơn trong chính sách thu hút đầu tư. Như vậy, chúng ta có cơ hội thúc đẩy sự phát triển bền vững và tạo giá trị dài hạn cho nền kinh tế Việt Nam.
IV. Thách thức đối với Việt Nam và những kiến nghị được đặt ra
4.1. Thách thức đối với Việt Nam
Bên cạnh những cơ hội nêu trên, việc áp dụng GMT cũng tồn tại những thách như: (i) gây ảnh hưởng đến hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia dù mức độ ảnh hưởng này phụ thuộc vào đặc điểm của từng hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp của mỗi quốc gia và (ii) làm giảm sức cạnh tranh trong ngắn hạn đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước chủ yếu dựa vào ưu đãi thuế để thu hút vốn FDI.
Bởi ưu đãi thuế vốn luôn là một trong những yếu tố quan trọng trong việc duy trì sản xuất quy mô lớn tại Việt Nam với lý do các Tập đoàn thường xem xét khả năng, chi phí, tính hiệu quả ở các nước để cân nhắc về vốn đầu tư, số sản lượng . Nhiều năm qua, thu hút FDI bằng cuộc đua ưu đãi thuế đã phổ biến trong khối ASEAN. “Ví dụ, năm 2014, khi Indonesia áp dụng miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 10 năm cho Samsung thì Việt Nam đưa ra điều kiện lên tới 15 năm.” . Do đó, việc chính sách thay đổi và lo ngại về khả năng hồi tố của pháp luật Việt Nam đối với việc truy thu số thuế đã ưu đãi trở thành yếu tố cản trở các nhà đầu tư này tiếp tục rót vốn vào Việt Nam.
Việt Nam đứng trước thách thức cần phải nhanh chóng ban hành các chính sách nhằm đảm bảo khả năng thu hút vốn sau khi áp dụng GMT, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia khác trong khối Đang phát triển cũng đang ráo riết thiết lập chính sách mới nhằm bù đắp cho doanh nghiệp (chính phủ Thái Lan đã áp dụng chính sách hỗ trợ tiền điện, Singapore dự kiến thực hiện thuế bổ sung nội địa để điều chỉnh chế độ thuế doanh nghiệp) và chưa đầy một năm là GMT có hiệu lực mà quy trình sửa đổi luật tiêu tốn nhiều thời gian, chưa kể phải tính toán các giải pháp cần hài hòa, phù hợp với chính sách GMT.
4.2. Những kiến nghị được đặt ra
GMT là một xu thế không thể cưỡng lại, tuy nhiên đối tượng điều chỉnh của chúng chỉ giới hạn đối với những doanh nghiệp lớn. Mặt khác, một vài doanh nghiệp mặc dù vốn không lớn nhưng bù lại họ có công nghệ và có thể thúc đẩy chuyển đổi công nghệ tại Việt Nam. Do đó Việt Nam nên chú trọng hơn vào ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI nhỏ và vừa đồng thời tìm cách thu hút đầu tư bằng cách tiếp tục cắt giảm phí, chi phí, thủ tục hành chính .
Theo kết quả điều tra của Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (“Eurocham”), tỷ lệ doanh nghiệp thấy các chính sách ưu đãi về thuế hấp dẫn chỉ ở mức 28% và theo tổng hợp kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác, thuế suất thấp không phải là yếu tố quan trọng nhất trong quyết định của các công ty về địa điểm đầu tư cho nhà máy mới mà các yếu tố khác như ổn định chính trị, môi trường kinh doanh thuận lợi, lực lượng lao động có chất lượng với tiền lương hợp lý và cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng hơn. Hơn nữa, trên thực tiễn, việc dựa vào ưu đãi thuế cũng gây ra bất lợi khi từ năm 2010-2020, thuế suất thuế thu nhập bình quân của Hiệp hội các nước ASEAN giảm từ 25% xuống 21,7% và thất thu ngân sách do ưu đãi thuế này ước tính khoảng 1% GDP của Việt Nam (Campuchia là 6%, Philippines là 1%) . Như vậy, việc thoát ly khỏi mục tiêu ưu đãi thuế và thiết lập những chính sách mới ưu đãi cho các dự án điện tái tạo, năng lượng sạch là cần thiết vì chúng vừa giúp đạt mục tiêu tăng trưởng xanh, vừa giúp thu hút đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra cũng có những kiến nghị cho rằng cần nghiên cứu, đề xuất Chính phủ trình Quốc hội sớm ban hành, điều chỉnh các chính sách về thuế, kế toán phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định quốc tế…; rà soát, thay đổi chính sách thu hút vốn FDI theo hướng tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh từ các yếu tố như: môi trường đầu tư, kinh doanh; lao động có kỹ năng; cơ sở hạ tầng; hệ thống doanh nghiệp vệ tinh, phụ trợ…
V. KẾT LUẬN
Trước khi GMT có hiệu lực, Việt Nam cần phải nỗ lực nâng cao, bảo đảm chất lượng cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông, viễn thông và năng lượng để làm yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI ngoài những chính sách ưu đãi về thuế.
Không phải ưu đãi thuế mà chất lượng cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông, viễn thông và năng lượng mới là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI trong dài hạn. Do đó, Việt Nam một mặt cần rà soát các ưu đãi để có những sửa đổi, điều chỉnh hoặc bổ sung phù hợp, mặt còn lại phải cải cách môi trường kinh doanh ở mức đổi mới, quyết tâm hơn và phạm vi rộng hơn, đặt trong bối cảnh phải tốt hơn quốc gia khác để thu hút dòng vốn FDI. Chẳng hạn, môi trường đầu tư kinh doanh phải thuận lợi hơn, an toàn hơn, chi phí kinh doanh rẻ hơn, hiệu quả hơn và hợp lý hơn. Cạnh đó là phát huy các yếu tố khác mà các quốc gia khác không thể có được như thị trường, chất lượng lao động, các hạ tầng về kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, phát triển lực lượng lao động lành nghề để thu hút thêm các FDI bằng cách đầu tư vào các chương trình giáo dục và đào tạo với mục tiêu cung cấp kỹ năng và kiến thức cần thiết cho lực lượng lao động. Điều này sẽ giúp VN trở nên hấp dẫn hơn đối với các FDI vì họ có thể hưởng lợi từ lực lượng lao động tri thức và có tay nghề.
Tuy nhiên, để thực hiện được tất cả những điều trên, Chính phủ không thể tự mình mà cần phải hợp tác và tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp và quốc tế. Như vậy, có thể thấy việc áp dụng GMT là cơ hội cho Việt Nam chuyển mình nhiều hơn là thách thức. Tuy nhiên, để có thể đạt được hiệu quả thì Việt Nam phải cố gắng hoàn thiện, cải thiện chính sách một cách khéo léo kể từ thời điểm áp dụng GMT. Điều này là để đảm bảo rằng quốc gia có thể duy trì và thu hút nguồn FDI vào Việt Nam.
Lữ Thị Yến Nhi – Lê Mạnh Hùng
ADK VIETNAM LAWYERS
Ghi chú:
*1. Bộ Tài Chính: Thuế tối thiểu toàn cầu và cơ hội thu thêm hàng chục nghìn tỷ đồng tiền thuế từ doanh nghiệp FDI
*2. Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Phó giám đốc phụ trách đối ngoại của Canon Việt Nam
*3. FDI và cuộc đua ưu đãi thuế của các nước ASEAN
*4. Ông Takeo Nakajima, Trưởng đại diện Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) Hà Nội
*5. Ông Amcham, Đại diện Hiệp hội thương mại Mỹ tại Việt Nam
*6. Theo báo cáo tổng hợp của Oxfam, VEPR và Prakasa